Những ánh đèn đêm

Trong cái lạnh cắt da cắt thịt của buổi sáng mùa đông, tôi lên đường với mong muốn tìm kiếm cho mình một cái gì đó thật mới mẻ.
Bốn giờ ba mươi phút sáng, tôi có mặt tại trung tâm thị trấn huyện Bát Xát. Hôm nay có rất nhiều xe máy, họ nối đuôi nhau đi trong màn sương với gió lạnh hun hút. Người nào người nấy trang bị cho mình thật kín đáo như không để cho một chút gió lạnh nào có thể len lỏi vào trong. Cách họ bảo hộ như vậy khiến tôi rất tò mò “Họ là ai? Họ đi đâu trong thời điểm này?”
Tôi quyết định đi theo họ. Dưới ánh đèn xe, tôi còn nhìn thấy ngoài việc trang bị thật kín họ mang theo rất nhiều đồ đạc. Qua lớp túi bóng tôi nhận ra đó là những túi thực phẩm và lóang thóang còn có người đeo những chiếc cặp. Tôi chắc họ là những giáo viên vùng cao.
  Đi được một đoạn rồi đến ngã ba, đoàn xe bắt đầu tách dần rồi tách cho kì hết sau nhiều ngã rẽ vào các xã, các thôn. Tôi luôn bám theo chân một cô giáo với dáng người nhỏ nhắn nhưng qua cách lái xe đầy kinh nghiệm, tôi cảm thấy cô ấy cũng đã có không ít lần đi đường núi. 
Màn sương như càng lúc càng dày hơn và cái lạnh cũng càng lúc càng lạnh hơn như đang cố thử sức dẻo dai của một cô gái. Vượt hơn sáu chục cây số cuối cùng tôi cũng đến được nơi cần đến. Đó là điểm trường Sa Pả thuộc xã A Mú Sung.

Đây là một thôn xa, nằm cách trung tâm xã hơn 10km sát biên giới Việt- Trung. Nhân dân ở đây chủ yếu là người Mông mới từ Mường Khương sang sinh sống. Đường đi vào thôn được rải cấp phối nhưng qua những cơn mưa rừng đã không còn phẳng phiu nữa mà thay vào đó là những rãnh nước chảy qua đường và những bãi đá lổm chổm. Phải tay lái cứng mới có thể vượt lên để đi được. Lên được đến đây quả là một thử thách. Nhưng dù với một tay lái điêu luyện, tôi cũng không đủ can đảm để lái chiếc xe của mình lên đến điểm trường của thôn. Đường lên thôn dài chừng hai trăm mét nhưng một bên là vực một bên là vách đất cao nhưng ở giữa con đường lại chia nhiều rãnh như những sống lưng trâu. Trời! Tôi không đủ tự tin nên đành dừng lại gửi xe ở một nhà dân ngay chân núi và quyết định đi bộ lên. Ấy thế mà cô giáo vẫn mạnh mẽ chắc tay lái vượt qua cung đường nguy hiểm đó. Tôi thật cảm phục. 
  Suốt dọc đường đi lên, tôi cố hình dung ra cuộc sống của các thầy cô giáo và lũ trò nhỏ ở nơi đây có lẽ giống như những vùng đất mà tôi đã đi qua. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên là lũ trẻ ở đây tỏ ra khá dễ gần, không mấy sợ sệt.Chỉ có mấy đứa trẻ khoảng hai tuổi theo anh chị đến lớp có vẻ nhút nhát khi gặp người lạ.
  Rồi cũng đến lúc được trò chuyện với cô giáo, một người giáo viên đã từng gắn bó với dân bản từ khi phân hiệu mới thành lập. Qua cuộc trò chuyện tôi biết cô tên là Hiền, nhà cô ở phố huyện, lên đây công tác đã mười hai năm. Mười hai năm cô đã đi gần hết mười một thôn bản của xã. Nhưng đây là thôn xa và khó khăn nhất, đến nay vẫn chưa có điện. Nói chuyện với tôi mà trong ánh mắt của cô luôn ẩn chứa một nỗi niềm khiến người đối diện cảm thấy không an lành. Với cảm giác như muốn biết rõ ngọn nguồn những băn khoăn của cô, tôi đã cố gắng gợi chuyện để cô nói ra điều trăn trở của mình. Cuối cùng tôi cũng đạt được mục đích của mình. Cô kể rằng: Cô đi làm xa đến hơn sáu mươi cây số từ đầu tuần đến cuối tuần mới về được. Tôi cố tình chen ngang câu nói của cô "giáo viên vùng cao thì ai cũng thế". Cô tiếp tục kể:" Nhưng hoàn cảnh của cô thì éo le hơn mọi người đi làm con cái còn có chồng hoặc ông bà trong giúp còn nhà cô chẳng có ai. Cô đi làm ở nhà chỉ còn hai đứa trẻ một đứa con trai lớn mới học lớp 7 còn cô con gái học lớp năm, chồng cô mới mất được hai năm. Hai bên nội, ngoại đều ở xa nên hai đứa trẻ tự chăm sóc nhau việc ăn uống cũng như học hành". Nghe đến đây, cổ họng tôi ứ nghẹn thương cho hai đứa nhỏ mà cũng thương cho cô - một người mẹ đã không thể chăm sóc cho con khi chúng còn quá non nớt để tự lập trong cuộc sống. Nhìn ánh mắt cô tôi thấy đượm buồn, nỗi buồn của một người mẹ luôn phải xa con, luôn mất ngủ vì lo cho con khi chúng còn quá non nớt. Lòng tôi trĩu nặng bởi tôi biết không chỉ có cô mà còn rất nhiều những thầy cô giáo đang công tác ở vùng sâu, vùng xa cũng đang âm thầm chịu đựng những gian nan, vất vả từ cái "nghiệp" của mình. Mỗi người đều có một nỗi trăn trở riêng.
Không để cho suy nghĩ của mình bị phân tán, tôi tập trung vào câu chuyện đang bỏ dở. Tôi hỏi cô:" Sao hoàn cảnh chị éo le vậy mà chị không xin chuyển công tác về vùng thuận lợi hơn để chăm sóc các con và chị cũng đỡ vất vả hơn?".
Chị nhìn tôi với ánh mắt đượm buồn: chị cũng muốn chuyển công tác về nơi thuận lợi hơn nhưng cứ nghĩ đến lũ trẻ ở đây lại không đành lòng. Chúng khổ lắm thiếu thốn đủ thứ từ cái ăn cái mặc, nếu thiếu cả chữ nữa thì chúng chẳng còn gì. Với lại chị đã gắn bó với bà con ở bản này lâu rồi, sống mãi thành quen nên không muốn rời đi nữa. Dân bản ở đây tuy nghèo những họ rất chân thành. Còn lũ trẻ ở đây thì chị coi chúng như những đứa con của mình. Nhìn những ánh mắt đau đáu chờ chị mỗi buổi sáng đầu tuần và những cái nhìn dõi theo chị mỗi ngày cuối tuần đến khi chị khuất bóng sau những dãy núi mới thôi đã thôi thúc chị cố gắng và níu chân chị ở lại. Chị kể tiếp:" Cách đây hai năm thấy chị ở đây lâu vất vả nhà trường cũng đã cho chị về trung tâm nhưng khi biết chị đi dân bản đã lên gặp thầy hiệu trưởng xin chị ở lại". Vậy đấy, có lẽ cái tấm chân tình của chị đã lay động tâm hồn của cả những con người chưa từng biết chữ, chưa biết nói tiếng kinh. Có lẽ, đây là hạnh phúc của một người thầy chăng? Hạnh phúc thật nhẹ nhàng mà cũng đủ sâu lắng trong tâm hồn mỗi người . Không chỉ có chị mà còn biết bao những thầy cô giáo cũng đang ngày đêm gắn bó với đồng bào vùng cao với mong ước thắp lên những hy vọng cho cuộc sống mới tốt đẹp hơn. 
Chia tay với chị, tôi không còn muốn chiêm ngưỡng vẻ đẹp của miền biên cương lúc hoàng hôn nữa. Những vệt nắng cuối này loang nơi đỉnh núi phía xa khiến lòng tôi se sắt với những cảnh đời thật éo le của những "kĩ sư tâm hồn" đang ngày ngày lặng sẽ hi sinh tuổi xuân, gia đình, hạnh phúc cho sự nghiệp giáo dục của đất nước. Họ thật đáng trân trọng biết bao.


Thành tựu giáo dục nổi bật
  • Danh sách các nhà giáo ưu tú tỉnh Lào Cai tính đến năm 2016

    Danh sách các nhà giáo ưu tú tỉnh Lào Cai tính đến năm 2016

  • Giáo dục và đào tạo Lào Cai trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội

    Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII về việc chia tách tỉnh Hoàng Liên Sơn thành 2 tỉnh: Lào Cai - Yên Bái, ngày 01/10/1991, tỉnh Lào Cai chính thức +đi vào hoạt động. Kể từ ngày tái lập đến nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, Lào Cai đã có những bước chuyển mình lớn mạnh. Trong chặng đường 25 năm phát triển, mặc dù trong hoàn cảnh bộn bề khó khăn nhưng với sự đoàn kết, quyết tâm cao, sáng tạo, đổi mới của toàn Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc, Lào Cai đã giành được những thành tựu quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng đảng và hệ thống chính trị; trong đó, có thể kể đến các thành tựu trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đây được coi là nền tảng, là động lực thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. 

  • Những bài học kinh nghiệm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo

    Sự nghiệp Giáo dục Đào tạo tỉnh Lào Cai đã khởi đầu từ khi thành lập chính quyền sau Cách mạng Tháng Tám và đã đạt nhiều thành tựu lớn lao qua các giai đoạn lịch sử. Trước 1991, Lào cai đã nỗ lực phấn đấu xóa mù chữ, xây dựng trường lớp tiểu học ở tất cả các xã, phát triển Trung học cơ sở ở vùng thấp và mở trường Trung học phổ thông ở các huyện và thị xã, thành lập mộ số trường Trung học chuyên nghiệp. Giáo dục đào tạo đã nâng cao dân trí cho một bộ phận dân cư, tạo nguồn và nâng cao trình độ cán bộ các cấp, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của tỉnh nhà và của cả nước, đồng thời để lại những bài học kinh nghiệm quý báu, tạo tiền đề cho sự phát triển giáo dục giai đoạn tiếp theo.

  • Thơ: Vắng thầy

    Trống trường đã điểm từ lâu Bâng khuâng cả lớp nhìn nhau, đợi thầy Vẫn chờ từng phút từng giây Dẫu biết thầy ốm từ ngày hôm qua… Bảng đen giờ đã nhạt nhòa Buồn tênh bục giảng, la đà phấn rơi

  • Thơ: Người thầy

     Thời gian thấm thoắt thoi đưa,  Xa thầy, xa lớp đã mười tám năm!                                          Nhớ thầy con trở lại thăm,                                     Rưng rưng ánh mắt giọng chan lệ nhòa.

  • Giáo dục Mầm non Lào Cai - 25 năm trên mảnh đất vùng cao biên giới

    Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm xã hội và thẩm mỹ cho con trẻ. Đó là trọng trách lớn lao, là vinh dự và cũng là khó khăn, vất vả mang tính đặc thù của cấp học này. Vì vậy, ngay từ khi tái lập tỉnh Lào Cai (1991), giáo dục mầm non đã sớm được quan tâm củng cố, phát triển. Nhìn lại bối cảnh những năm đầu tái lập tỉnh cho đến hôm nay, mới thấy giáo dục mầm non đã có một bước tiến dài, khá nhanh, mạnh về quy mô và chắc về chất lượng.

  • Điểm sáng Lào Cai

    Lào Cai quê tôi Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt. Nơi đỉnh Phan xi păng vẫn bốn mùa nắng đẹp, Nơi vẻ đẹp tình người sáng dậy những vần thơ. ....

  • Công tác xóa mù chữ -25 năm gian nan và thành quả

    Xóa mù chữ (XMC) là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, hướng tới mục tiêu “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, góp phần thực hiện xây dựng xã hội học tập trên địa bàn tỉnh đến năm 2020. Vì vậy, ngay khi tái lập tỉnh Lào Cai (1991), sự nghiệp giáo dục nói chung và công tác xóa mù chữ (XMC) nói riêng được các cấp ủy Đảng, chính quyền đặc biệt quan tâm thực hiện. 









Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập